Home
» Chính trị
» Giải độc thông tin
» Giáo dục
» GIÁO HỘI LA MÃ: LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC-HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN
GIÁO HỘI LA MÃ: LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC-HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN
HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI VÀ
NHỮNG THÀNH TÍCH TÀN SÁT LƯƠNG DÂN
Chương sách này nói về chủ trương và thành tích hủy tích diệt nền văn minh nhân loại cùng với thành tích tàn sát lương dân thuộc các tín ngưỡng khác và những người bị Giáo Hội nghi ngờ là không tuyến đối tin tưởng vào hệ thống tín lý Ki-tô và tuân hành lệnh truyền của Giáo Hội.

Trường hợp cắt đầu xảy ra ở Croatia năm 1943 (hình tài liệu trong http://www.reformation.org/holoc7.html, CATHOLIC FRIARS, PRIESTS, EXECUTIONERS, BISHOPS AND MURDERERS
I.- CHỦ TRƯƠNG HỦY DIỆT CÁC NỀN VĂN MINH
VÀ CÁC TÔN GIÁO KHÁC
Chủ trương của Giáo Hội La Mã là hủy diệt nền văn minh nhân loại và tàn sát những người thuộc các tín ngưỡng khác để thay thế vào đó bằng cái mà Giáo Hội gọi là “Nền Văn Minh Thiên Chúa Giáo” trong đó tất cả mọi người phải được“Ki-tô hóa” và nằm dưới quyền chỉ huy của Tòa Thánh Vatican. Chủ trương này bắt ngưồn từ các sách Phục Luật, Xuất Hành, Leviticus (26:1-18), v.v..trong Cựu Ước Kinh. Thí dụ như sách Phục Luật và sách Xuất Hành đều ghi rõ những điều dưới đây:
"Phá sạch những nơi thờ thần của họ (Thánh Kinh Tin Lành dùng cụm từ “chúng nó” thay cho “họ") trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh. Đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ. Đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ, * và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó." (Phục Luật 12:2-3). "Phải giết những kẻ tiên tri nào dám nhân danh các vị thần khác mà nói (Phục Luật 18:20). Chớ theo những vị thần của các dân tộc ở chung quanh các ngươi (Phục Luật 6:14). Phải dứt khoát giết những người đi lễ (bất kỳ) vị thần nào khác ngoài Giê-hô-va (Xuất Hành 22:20).
Và trong sách Leviticus (26:1):
"Các ngươi không được tạo ra những hình tượng nào để sùng bái cho chính các ngươi; các ngươi cũng không được khắc chạm một hình ảnh nào hay dựng nên một trụ cột thiêng liêng nào để nâng cao cho chính các ngươi; ở trong vùng các ngươi cư ngụ, các ngươi cũng không được dựng nên một hòn đá nào có khắc chạm để cúi đầu nghiêng mình trước nó; vì rằng Ta là Thượng Đế của các ngươi.” (You shall not make idols for yourselves; neither carved image nor sacred shall you rear up for yourselves; nor shall you set up an engraved stone in your land, to bow down to it; for I am the Lord you God).
Xin xem lại Chương 1.
Ông Charlie Nguyễn viết về chủ trương hủy diệt nên văn minh nhân lọai của Giáo Hôi La Mã như sau:
"Thực chất Công Giáo cũng không phải là Ki-tô Giáo (Christianity) vì đế quốc La Mã đã ra sức tiêu diệt Ki-tô Giáo rất ác liệt trong hơn 3 thế kỷ đầu Công Nguyên. Từ năm 325 đến cuối thế kỷ 4, đế quốc La Mã lập ra đạo mới là đạo Công Giáo (Catholicism) trên xác chết của Ki-tô Giáo nguyên thủy bằng cách tiêu diệt các giáo phái Ki-tô còn sót lại dám chống Công Giáo. Đồng thời chúng hủy diệt các dấu tích thật về Chúa Jesus còn sót lại ở Jerusalem, ngụy tạo Thánh Kinh, xuyên tạc lịch sử, đốt phá các thư viện và đốt các sách thuộc văn minh nhân bản Hy Lạp. Sỡ dĩ đế quốc La Mã phải diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp vì nền văn hóa này hoàn toàn đi ngược lại bản chất phi nhân bản (inhumanity) của Công Giáo La Mã do chúng mới thành lập. Tội ác tiêu diệt văn hóa Hy Lạp của đế quốc La Mã đã làm cho nền văn minh của nhân loại bị chậm lại cả ngàn năm. Từ năm 325 trở đi, đế quốc La Mã không hề ngược đãi Công Giáo mà chỉ lo củng cố và bành trướng tôn giáo này mà thôi vì Công Giáo là con đẻ của đế quốc. Đến thế kỷ 5, sự tiêu diệt nền văn hóa nhân bản cổ xưa của Hy Lạp gần như hoàn toàn đến nỗi tổng Giám mục Chrysotom phải khoe rằng: "Mọi dấu vết về triết học và văn chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất" (Every trace of the old philosophy and literature of the ancient world has vanished from the face of the earth – Bible Myths by Doane p. 436)." [1]
Trên đây là nói về chủ trương, tức là cái tư tuởng huỷ diệt các nên văn minh và tôn giáo khác cùng những nhóm dân dân không phải là Ki-tô giáo. Phần dưới đây sé nói về những rặng núi tộ ác của Giáo Hội trong nỗ lực huỷ diệt các nền văn minh và các tôn giáo khác.
II.- THÀNH TÍCH HỦY DIỆT NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI
Tư tưởng biến thành hành động. Phần trình bày trong Mục I trên đây là nói về cái tư tưởng độc ác của Giáo Hội La Mã muốn “diệt tận gốc, trốc tận rễ” tất cả các nền văn minh và các tôn giáo không phải là Ki-tô giáo để nắm quyền bá chủ toàn cầu hầu cưỡng bách tất cả các dân tộc trên trái đất này phải theo đạo Ki-tô và nằm dưới ách thống trị của Tòa Thánh Vatican. Mục II này sẽ nói về những nỗ lực Giáo Hội La Mã để thể hiện cái chủ trương (tư tưởng) độc ác trên đây thành những hành động cụ thể với những thành tích hủy diệt tất cả các công trình kiến trúc cùng tất cả các di sản văn hóa của các nền văn minh và các tôn giáo khác không phải là Ki-tô giáo.
Nói đến thành tích hủy diệt nền văn minh nhân loại và thành tích giết người cướp của của Giáo Hội La Mã, có thể nói là phải dùng đến mấy chục ngàn trang giấy cũng chưa đủ để viết cho hết. Vì giới hạn của chương sách này, người viết chỉ nêu lên một số tài liệu nói về một số những trường hợp mà Giáo Hội đã tàn phá các công trình kiến trúc và các di sản văn hóa của các dân tộc chẳng may bị quân đội thập ác của Giáo Hội tiến đến. Hy vọng rằng, sau khi đọc những tài liệu lịch sử này, độc giả có thể căn cứ vào đó mà suy ra và nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Tòa Thánh Vatican.
Một trong những trường hợp này được sách The Dark Side Of Christian History ghi lại sự kiện này với nguyên văn như sau:
“Giáo Hội đốt không biết bao nhiêu là tác phẩm văn chương. Năm 391, tín đồ Ki-tô giáo đã đốt những thư viện lớn nhất trên thế giới ở Alexandria (Ai Cập) trong đố có tới 7000 ngàn cuốn sách. Tấc cả những sách này là của Gnostic Basilides, 36 quyển của Porphtry rất nhiều cuộn của 27 trường phái Mysteries và 270 ngàn tài liệu do Ptolemy Philadelphus thâu thập được cũng đề bị đốt hết. Những hàn lâm viện cổ xưa để học hỏi đều bị đóng cửa. Mọi vấn đề giáo dục cho những người ngoài Giáo Hội đều bị chấm dứt. Nguyên văn: “The Church burned enormous amounts of literature. In 391, Christians burned down one of the world’s greatest libraries in Alexandria, said to have house 700,000 rolls. All the books of the Gnostic Basilides, Porphtry’s 36 volumes, papyrus rolls of 27 schools of Mysteries, and 270, 000 ancient documents gathered by Ptolemy Philadelphus were burned. Ancient academies of learning were closed. Education for anyone outside of the Church came to and end.”[2]
Trong cuốn Công Giáo Chính Sử, Giáo sư Trần Chung Ngọc dịch nguyên vản mấy đọan văn trong cuốn Deceptions And Myths Of The Bible (Secaucus, N.J: Carol Publishing Group, 1975) nơi trang 444-447) nói về thành tích của Giáo Hội La Mã về việc tàn sát hàng triệu người thuộc các tôn giáo khác và hủy diệt công trình văn hóa và văn minh của các dân tộc nạn nhân này ở Âu Châu và ở vùng Trung Đông trong thời Trung Cổ như sau:
"Sự hủy diệt mọi chứng tích về phái Tự Ngộ và những nguồn tài liệu về đa thần là "việc làm đầu tiên" của Kitô Giáo. Chính các nhà truyền giáo đã khởi sự ở Antioch như được nói đến trong sách "Công Vụ Các Sứ Đồ" (Acts) Do lệnh của Giáo Hội Gia-tô La Mã, tất cả kinh sách của những người ủng hộ phải Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của Porphyry (Porphyry là một triết gia (232-305) có chủ trương cho rằng triết lý là phương tiện giải thoát và nhấn mạnh đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con người; TCN) Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hoàng Đê Theodosius [Roman Emperor (379-395)] đốt sạch 27 ngàn tài liệu về học phái huyền bí vì những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của Ngũ Kinh.
Sự hủy diệt văn hóa này vãn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua đời. Những tín đồ cuồng tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: Thập tự quân (trong các cuộc chiiến Thập Tự kéo dài từ năm 1095 đên năm 1291 - NMQ) đốt tất cả các sách vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuốn nguyên bản thánh thư Do Thái. Năm 1233, những tác phẩm của Mainmonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204; TCN) bị đốt cùng với 12 ngàn cuốn của Kinh Talmud (Thánh Kinh của Do Thái Giáo; TCN). Năm 1244, 18 ngàn cuốn sách đủ loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt 80 ngàn bản văn của Ả Rập ở Công Trường Granada. Ở Tân Thế Giới (Mỹ Châu), toàn bộ kiến thức cổ xưa bị người Kitô Tây Ban Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng kiến thức này.
Sau khi phá hủy mọi chứng tích, các nhà lập giáo Kitô đầu tiên đã có thể thay thế những kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong những nguyên bản, ... Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau:
"Trong bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liêu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết trung thực về nguồn gốc thực của sự mê tín trong Kitô Giáo. Những huyền thoại được viết và in ra như là lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối." (Lloyd. M Graham, Deceptions And Myths of the Bible, trang 444-445)
"Theo giáo lý của họ thì "máu của Chúa Kitô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới," nhưng tội lỗi vãn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch chính là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây Phương đau đớn đến nỗi Agibard ở Lyons phải viết như sau:"Cái thế giới bất hạnh này dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người Kitô giáo tin, thực ra là những điều vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người ngoại đạo tin được." Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng tôi xin cống hiến một chuyện trong Kitô giáo vè Thánh John trong Phúc Âm. Theo lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho Hoàng Đế Domitian nổi giận. Để trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa thông. Và khi người ta châm lửa ,dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe thấy một tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này và những điều hoang tưởng trong đó. Và nay, nếu những tin đồ Kitô xuất sắc có thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh Kinh." (Lloyd. M Graham, 447-448. [3]
Sách lược lấn chiếm tiếm quyền và chủ trương hủy diệt nền văn minh nhân loại của Vatican được thể hiện qua các chính sách đối ngoại cũng như đối nội của Giáo Hội.
Về chính sách đối nội, chúng ta thấy năm 1232, Giáo Hội cho thiết lập các Toà Án Dị Giáo để xét xử và tiêu diệt những thành phần nằm dưới ách thống trị của Giáo Hội bị nghi ngờ hay bị gán cho là không tin theo hệ thống lý thuyết thần học quái đản của Giáo Hội. Các Toà Án ác ôn này hoành hành ở nước Pháp cho đến khi Cách Mạng bùng nổ vào năm 1789 mới chấm dứt. Trong khi đó thì ở Tây Ban Nha và các thuộc địa của đế quốc này, nó vẫn còn tác oai tác quái cho đến năm 1820. Sau thời điểm này, các Tòa Án ác ôn này lột xác biến thành Thánh Bộ Truyền Giáo và các chế độ đạo phiệt Gia-tô do Giáo Hội thiết lập tại các địa phương như ở Tây Ban Nha và Croatia trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ở Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994.
Về chính sách đối ngoại, Giáo Hội thi hành sách lược "cáo đội lốt hùm" theo đó thì Giáo Hội luôn o bế, liên minh hay cấu kết chặt chẽ với các thế lực hùng mạnh đương thời để "dựa hơi" với dã tâm "theo đóm ăn tàn" hay "theo voi ăn bã mía" rồi "mượn gió bẻ măng" để hủy diệt các tôn giáo cùng các nền văn hóa cổ truyền và nền văn minh của người dân bản địa. Phần trình bày dưới đây sẽ cho chúng ta nhìn thấy rõ một số những thành tích của Giáo Hội về những tội ác hủy diệt nền văn minh nhân lọai từ thời Trung Cổ cho đến ngày nay.
Tiếp theo những thánh chỉ được ban hành trong thế kỷ 15 như đã trình bày ở chương trước, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được Giáo Hội khích lệ đem quân đí chinh phục Tân Thế Giới cùng lục địa phi Châu và nhiều nơi khác ở Á Châu. Trong những đòan quân thập tự viễn chinh này đều có rất nhiều giáo-sĩ Gia-tô cùng đi để vừa làm nhiệm vụ đưa đường dẫn lối, vừa giữ vai trò chỉ đạo thiết lập chế độ đạo phiệt Gia-tô tại các vùng vừa mới chiếm được để thi hành kế họach Ki-tô hóa và với chủ trương "diệt tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các công trình văn hóa và văn minh của các dân tộc bản địa. Hậu quả là ở đâu có gót giầy của các đoàn quân thập tự Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha là ở đó hiện lên cảnh hoang tàn đổ nát, đền, đài, miếu tự, dinh thự và tất cả những gì thuộc về văn minh và văn hóa cổ truyền của các dân tộc bản địa đều bị tiêu hủy, nhà cửa bị thiêu rụi, đàn ông bị sát hại, đàn bà con gái bị hãm hiếp. Ông Charlie Nguyễn ghi lại thảm trạng này ở Châu Mỹ La Tinh như sau:
"Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và cướp đọat vàng bạc của cải làm giầu cho Tòa Thánh, Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha vào năm 1503. (Ngày 4 tháng 5 năm 1503, Giáo Hoàng Alexander ký sẵc lệnh Inter Catera, sắc chỉ này về sau được dùng làm căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (New World).
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha sử dụng một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên tìm vàng là Herman Cortez làm tướng chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600 binh sĩ cùng với một đoàn tu sĩ Phan-xi-cô do Giám-mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3 năm 1519, đoàn quân này đổ bộ vào Vịnh Tabasco. Tháng 5 năm 1519, chúng chiếm thành phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchitlan và hoàn tất cuộc xâm lăng Mexico (mễ Tây Cơ).
Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất của Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù, phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố, những sau khi thành công, bọn chúng giết hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám-mục lãnh đạo tinh thần của đoàn quân xâm lược này là Giám Mục Diego de Linda chủ trương đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da Đỏ.
Trong các đền thờ xây cất tương tự như Kim Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs và Maya, thường có nhiều tượng và đồ vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chẩy thành vàng khối chở về Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than. Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh rộng 300 mét, lớn gấp đôi Kim Tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó là nhà thờ "Đúc Mẹ Đồng Trinh".
Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của 44 thành phố thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một pho sách cổ của dân tộc Maya gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng đều bị cháy thành than. Nhiều tấm bia đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vất xuống đáy hồ. Hiện nay, các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít tượng đồng và tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được trình độ cao trong việc sản xuất đồ gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà khảo cổ ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây Lịch.
Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Diego và Herman Cortez còn được ghi lại trong những cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi theo đoàn quân xâm lược, trong đó có một số hình ảnh về cảnh chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man. Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực dân tiêu diệt sạch, không còn một ai sống sót. Theo một số báo cáo của đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây Ban Nha vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico khỏang 15 (mười lăm) triệu người. Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn 2 (hai) triệu mà thôi. Phần lớn thổ dân đã chết vì nhiễm các loại vi trùng do thực dân Tây Ban Nha đem từ lực địa Âu Châu qua. Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khỏang 60 (sáu mươi) triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình đã chiếm 250 hec ta đồn điền và làm chủ 200,000 (hai trăm ngàn) nô lệ da đỏ." [4].
Thảm trạng của dân Da Đỏ ở Mỹ Châu cũng được ông Phạm Quốc Sử ghi lại như sau:
"Bởi thế, việc Christopher Columbus rồi Amerigo Vespucci đến Châu Mỹ cũng chính là sự khởi đầu của quá trình người Châu Âu mang những tai họa thảm khốc đến cho châu lục này. Cụ thể chỉ sau mấy năm đầu thống trị của thực dân Tây Ban Nha, hơn một triệu cư dân bản địa trên quần đảo Antilles thuộc vùng biển Caribbean đã bị tiêu diệt gần hết. Khi tiến đánh Mexico, thực dân Tây Ban Nha đã thẳng tay phá trụi tất cả những công trình văn hóa cổ xưa và tiêu diệt gần hết số dân trong thành Mexico [8, p 544]. Ở khu vực Nam Mỹ, Francisco Pizarro cùng với băng đảng gồm 160 thợ săn kho báu người Tây Ban Nha của ông ta, bằng súng thần công và ngựa, đã dìm toàn bộ nền văn minh huy hoàng của người Inca trong biển máu. Không chỉ chiếm đất đai, giết người, cướp của và tàn phá nền văn minh Inca, người Âu Châu còn reo rắc những căn bệnh lạ như bệnh sởi, khiến cho cộng đồng người Inca bị hủy diệt với tốc độ nhanh chóng. Năm 1520, dân số Inca có khoảng 32 triệu người, nhưng đến năm 1548 chỉ còn khoảng 5 triệu. Ngày nay cái tên Inca có lẽ chỉ còn được nhắc đến như một minh chứng về sự hủy diệt các nền văn minh mà thôi." [5].
Thảm cảnh của người dân Da Đỏ ở Châu Mỹ La Tinh và người dân bản địa ở Phi Luật Tân sau khi bị Giáo Hội La Mã tàn phá quê hương của họ được ông Phan Quốc Đông ghi nhận như sau:
"Tôi cũng đã đọc kỹ lịch sử của Giáo Hội Vatican, tiểu sử của từng vị giáo hoàng, các phương pháp bành trướng tôn giáo của họ tại các lục địa khác ngoài Âu Châu, phương pháp nào nhanh, phương pháp nào chậm. Phương pháp nhanh nhất được thực hiện bởi thực dân Tây Ban Nha tại các xứ thuộc Châu Mỹ La Tinh thật là vô cùng tàn ác. Họ dùng gươm giết hết những người đàn ông bản xứ, chỉ còn lại toàn đàn bà con gái thôi, để họ vừa bắt buộc theo đạo, vừa hãm hiếp đồng hóa. Số người bị giết lên tới mấy chục triệu. Đây là phương pháp truyền đạo của phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha được Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) hỗ trợ. Đi du lịch ở các xứ này ta chỉ thấy toàn những người lai mà thôi, hầu như không còn một người bản xứ nào sống sót. Tại Phi Luật Tân, họ cũng giết hàng triệu người, đập phá toàn bộ các đền thờ cổ, thủ tiêu hoàn toàn mọi chứng tich của nền văn minh cổ của xứ này. Ngôn ngữ, văn tự, truyền thống, văn hóa hoàn toàn mất hẳn…" Nhiều tác giả, Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1995), tr 339-340.
Tác giả Huỳnh Thu ghi nhận:
“Penny Lernoux viết trong cuốn Tiếng Kêu Than Của Người Dân (Cry of the People) như sau về sách lược truyền giáo ở Châu Mỹ La Tinh:
"Từ lúc đầu, xã hội Mỹ - LaTinh được xây dựng giống như một Kim Tự Tháp, với vài người Âu Châu đến định cư và hưởng mọi quyền lợi của đế quốc, và quần chúng thổ dân, da đen, giai cấp thấp, không có một quyền nào. Cái tháp tồn tại được là vì khối nhân dân ở dưới đáy được nhắc nhở rằng họ ngu si, lười biếng, và thấp kém. Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa. Như Tổng Giám Mục ở Lima dạy các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi đến hạnh phúc." (hạnh phúc sau khi chết.). Người thổ dân hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay.. Giáo hội Ca-Tô phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này." Trần Phong Vũ. “Giiáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại.” Danchimvietonline. Ngày 9 tháng 12 năm 2005.
Tại Việt Nam, Tòa Thánh Vatican cũng chủ trương cho thi hành chính sách hủy diệt nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta, giống như Giáo Hội đã làm ở Âu Châu, ở Trung Đông, ở Châu Mỹ La Tinh và ở Phi Luật Tân. Nhưng vì trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1862 cho đến ngày 30/4/1975, quyền lực của Gíao Hội La Ma tại đây bị hạn chế bới chính quyền thực dân Pháp (1862-1954) và chính quyền Hoa Kỳ (1954-1975) cho nên mức độ hủy diệt nền văn hóa và văn minh bản địa chưa đến độ khủng khiếp như Giáo Hội đã làm ở Châu Mỹ La Tinh và Phi Luật Tân. Tuy nhiên, qua bọn tín đồ cuồng tín tay sai người Việt, Giáo Hội cũng đã tiến hành được một số những hành động man rợ này. Dưới đây là một vài bằng chứng:
1.- Đầu thập niên 1860, Gíám-muc Puginier sọan thảo một kế hoạch được gọi là Kế Hoạch Puginier nhằm tiêu diệt giới Nho sĩ Việt Nam và hủy diệt hết tất cả ảnh hưởng của các nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam, chỉ dùng người Việt Da-tô vong bản phản quốc làm tay sai để tiến hành kế họach phi nhân và dã man này [6] . Kế họach này bị người Pháp xếp xó và chỉ dùng có phần dùng người Việt đánh người Việt và sử dụng tín đồ Da-tô trong bộ máy đàn áp nhân dân ta thôi.
2.- Trong những năm 1945-1954, ngày sau khi được Tòa Thánh Vatican và chính quyền De Gaulle của nước Pháp bổ nhậm giữ chức Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 với nhiệm vụ tái lập nền thống trị của Liên Minh Đến Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Thập Ác Vatican tại phần đất này, trong thời gian tại chức cho đến ngày 15/3/1947, Cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu đã triệt để thi hành chính sách chia để trị của Giáo Hội La Mã đã được họach địch sẵn trước đó. Ngay khi vừa đến Sàigòn vào tháng 10/1945, dựa vào chức vụ Cao Ủy Đông Dương, cựu Linh-mục d’ Argenlieu, cho xé Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam để thành lập nước Nam Kỳ và đưa bọn Việt gian người miền Nam mang quốc tịch Vatican và quốc tịch Pháp lên thành lập chình phủ vào mùa Xuân năm 1946. Rồi cũng năm 1946, Giáo Hội lại ra lệnh cho tên cựu linh mục này xé miền Cao Nguyên Nam Trung Kỳ để thành lập nước Tây Nguyên, và xé vùng Sơn La - Lai Châu để thành lập nước Thái Tự Trị và đưa tên Thái gian là Đèo Văn Long lên thành lập chính quyền. Tháng 1/1947, trước khi hết nhiệm kỳ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 15/3/1947, Giáo Hội lại ra lệnh cho viên cựu linh mục này đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” (the Bảo Đại Solution) với dã tâm dùng “người Việt đánh người Việt”, dùng “tín đồ Da-tô bản địa cai trị đại khối nhân dân người Việt Nam theo tam giáo cổ truyền”, rồi sử dụng mấy cụm từ “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” với “lá cờ vàng ba sọc đỏ” làm bức bình phong che đậy cho bọn Việt gian đã và đang cấu kết với liên minh giặc Pháp - Thập Ác Vatican trong bộ máy đàn áp nhân dân và chống lại lực lượng nghĩa quân kháng chiến giải phóng dân tộc ta lúc bấy giờ. Giải Pháp Bảo Đại mãi tới ngày 5/6/1948, trong thời Cao Ủy Emile Bollart (15/3/1947- 10/1948), mới thực hiện được bằng cách biến chính quyền Việt gian Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Phú Khai, Trương Vĩnh Khanh, Nguyễn Tấn Cường, v.v.. của nước Nam Kỳ (do chính d’ Argenlieu cho ra đời) thành chính quyền quốc gia. Kể từ đó, "chính quyền quốc gia" này cuỗm (ăn cắp) bài hát Tiếng Gọi Thanh Niên được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác vào mùa Xuân năm 1945 làm quốc ca. Cái “chính quyền quốc gia” và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” sau đó được Giáo Hội La Mã ủy cho hai tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nhẩy lên bàn độc múa may cho đến ngày 30/4/1975 thì rã ngũ khi quyền lực của Hoa Kỳ không còn tồn tại ở miền Nam Việt Nam nữa.
3.- Trong những năm 1948-1954, Giáo Hội lại ra lệnh cho bọn Giám-mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi tách rời hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu và biến hai giáo khu này hai giáo khu tự trị để chuẩn bị biến hai giáo khu này thành hai vương quốc theo đạo Kitô trong nước Việt Nam. Giáo Hội cũng đã thực hiện việc lãm dã man này ở Croatia trong những năm 1941-1945 và sau này vào những năm 1999-2002, Giáo Hội cũng làm như vậy ở East Tomor.
4.- Cuối năm 1954, toán lính Gia-tô Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của Giám-mục Lê Hữu Từ và Linh-mục Hoàng Quỳnh phá hủy ngôi Chùa Một Cột tại Hà Nội vào đêm 10 tháng 9 năm 1954 trên đường chạy trốn từ Phát Diệm qua Hà Nội xuống Hải Phòng rồi vào Nam. Sự kiện này được sách Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị ghi lại như sau:
“Ngôi chùa lịch sử này kể từ ngày dựng chùa cho đến ngày 10/09/1954 mới bị phá hủy do toán lính công giáo của Linh-mục Lê Hữu Từ và Hoàng Quỳnh đặt mìn giật sập. Toán lính công giáo này từ Bùi Chu, Phát Diệm lên tạm trú tại trường Thiếu Sinh Quân Hà Nội để chờ phương tiện vào Nam. Một nhóm lính công giáo trong đó có Cai Long đã tham dự vào việc đặt mìn giật sập Chùa Một Cột vào đêm 10/09/1954. Cai Long sau là Thượng Sĩ thuộc Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, Sư Đoàn 25 Bô Binh. Thượng Sĩ Long là bạn thân từ hồi còn nhỏ với Trung Tá Nhẩy Dù Đào Văn Hùng cựu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Dù và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 46 Bộ Binh. Thượng Sĩ Long đã vui miệng khoe thành tích giật sập Chùa Một Cột trong lúc vui say cùng đồng đội.
Cho tới khoảng tháng 06 năm 1970, Thượng Sĩ Long ngà ngà say rượu, lấy súng M. 16 tìm bắn Trung Úy Phương và một số đồng ngũ nên ông bị lính của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 46, bắn chết. Những dữ kiện về Thượng Sĩ Long có nhiều người được biết hiện có mặt tại Hoa Kỳ như cựu Chuẩn Tướng Lều Thọ Cường, cựu Đại Úy Lê Văn Thúy hiện định cư tại California, cựu Đại Úy Trần Ngọc Nhân hiện ở Houston, Texas.
Ngôi Chùa Một Cội mà ta thấy hiện nay là chùa mới xây lại vào tháng 4 năm 1955.” [7]
5- Trong những năm 1954-1963, vì triệt để tuân hành những lời dạy trong các sách Phục Luật, Xuất Hành và Leviticus như đã nói ở trên, đặc biệt là những lời dạy “Phải phá sạch những nơi thờ thần của họ trên núi cao, trên đồi, dưới bóng cây xanh. Phải đập tan bàn thờ, đâp vụn cột đền, lấy lửa đốt rụi hết các tượng của họ. Đục khoét cho mất hết mọi hình chạm trổ các tượng thần của họ, * và xóa tên những thần ấy ở những nơi đó”, chính quyền đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm không cho tổ chức lễ giỗ tổ Hùng Vương. Sự kiện này được cụ Đỗ Mậu ghi lại trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi với nguyên văn như sau:
“Việc biến nhà thờ La Vang ở Quảng Trị thành một đền thờ Quốc Tổ (phải gọi là Quốc Mẫu thì đúng hơn!) đã dám làm thì ngay tại Sàigòn, việc biến Tòa Đô Sảnh của thủ đô thành một địa điểm tôn giáo để mừng Chúa ra đời không phải là chuyện chế độ Diệm ngại ngùng nữa. Tại Sàigòn đã có rất nhiều nhà thờ lớn trên các khu đất khang trang, có quá nhiều nữa là khác. Ngay tại trung tâm thủ đô, ở Quận Nhất sang trọng của giao điểm hai đường Tự Do và Thống Nhất đã có Vương Cung Thánh Đường đồ sộ, thế mà hàng năm cứ vào lễ Giáng Sinh, cơ sở quốc gia là Tòa Đô Sảnh ở Đại Lộ Nguyễn Huệ vẫn cứ bị trưng dụng để treo đèn kết hoa mừng Chúa xuống trần.
Tệ hơn nữa là biết lấy nhà thờ Đức Mẹ La Vang làm “pháo đài tinh thần của quốc gia”, biết lấy Tòa Đô Sảnh để vinh danh Thiên Chúa, nhưng anh em ông Diệm lại không chịu xây đền thờ Quốc Tổ, lại càng không kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương để duy trì truyền thống dân tộc và thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Cái danh hiệu Hùng Vương chỉ được đặt tên cho một con đường xa xôi trong vùng Chợ Lớn, trong khi đại lộ thênh thang nối liền trung tâm thành phố với phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất thì lại trang trọng đặt tên cho người anh là Ngô Đình Khôi. Thủ Đô Việt Nam Cộng Hòa không có được một Văn Miếu, không có được một bức tượng Tổ, trong khi những bức tượng đồng của các nhân vật Thiên Chúa Giáo thì vẫn được duy trì chăm sóc như dưới thời Pháp thuộc!…
Tôi còn nhớ nhà văn Chu Tử có kể lại trong tuần báo Đời ở Sàigòn câu chuyện của một giáo sư đại học nặng lòng với Tổ Quốc Hùng Vương, đã đề nghị với ông Diệm xây đền thờ Quốc Tổ thì bị ông Diệm trỏ mặt nạt lớn: “Tổ anh chứ tổ tôi à !” Còn nhà văn Võ Phiến trong tác phẩm “Đất Nước Quê Hương” có cho biết mãi sau khi chế độ Diệm không còn nữa, nhân dân các tỉnh đã hăng say xây đền thờ Quốc Tổ. Tại Sàigòn, nhiều đoàn thể thanh niên, sinh viên phát động phong trào “về nguồn”, thành lập Hội Việt Võ Đạo, sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, đã hàng năm tổ chức lễ kỷ niệm Tổ Hùng Vương để cùng với các thành phần khác của dân chúng vận động xây đền thờ Quốc Tổ. Lòng dân hướng về Quốc Tổ như thế mà anh em ông Diệm lại không coi Vua Hùng là giòng họ Việt tộc đã khai mở đất nước mà chỉ lo tôn vinh các giáo đường.” Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr 455-456
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ chủ trương của Giáo Hội là "diệt tận gốc, trốc tận rễ" tất cả các tôn giáo cùng các nền văn hóa và văn minh khác của nhân loại. Chủ trương bắt nguồn từ mặc cảm tự ti sinh ra lòng ganh ghét, đố kị, tị hiềm, kèn cựa, không muốn cái gì hơn mình hay không phải là minh thì không được tồn tại và đã được viết ra thành văn bản ghi lại rõ ràng trong các sách ở trong Cựu Ước. Tình trạng này y hệt như một nữ bạo chúa vừa xấu xí vừa ác độc vừa có quyền lực. Vốn mang mặc cảm xấu xí, với bản chất ác độc sẵn có và lại có quyền lực trong tay, nữ bạo chúa xấu xí ác độc này bèn ra lệnh giết hết những cô gái đẹp, dù là chỉ đẹp hơn cô ta một chút. Giáo Hội La Mã quả thật không khác gì nữ bạo chúa xâu xí và ác độc trên đây. Xin nhắc lại, chủ trương ác độc và dã man này của Giáo Hội bắt nguồn từ trong Kinh Cựu Ước. Chỉ có Giáo Hội La Mã mới có thể làm được như vậy! Thật là dã man! Thật là độc ác! Thật là táng tận lương tâm!Thiết tưởng rằng những dữ kiện được nêu ra trên đây cũng đủ nói lên cái dã tâm thâm độc cực kỳ man rợ của Giáo Hội La Mã là quyết tâm hủy diệt tất cả các tôn giáo và di sản văn hóa của nhân loại để thay thế vào đó cái tôn giáo quái đản mà văn hào Voltaire gọi là "cái tôn giáo ác ôn".
III.- NHỮNG CON SỐ NẠN NHÂN BỊ GIÁO HỘI LA MÃ TÀN SÁT
Cho đến nay (thời điểm 2005), các nhà viết sử đều đồng ý với nhau là con số nạn nhân bị tàn sát lên tới gần 300 triệu. Trong cuốn Deceptions and Myths được phát hành vào năm đầu tiên vào năm 1975, sử gia Lloyd M. Graham nói rõ con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại lên tới trên trên 250 triệu:
"Chúng ta đã biết được những gì trong 7 trăm năm này? Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân nhân của 53 quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.” [Nguyên văn: What have we learned in those seven hundred years? “Three million lost their lives in a futile attempt to rescue a tomb from Mussulmans. Ten million were slain during the Inquisition. Fourteen million were slain in Christian wars of the Nineteenth Century. Thirty million lost there lives in wars between Christian nations during the first two decades of the Twentieth Century. Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused the death of more than 200,000,000 people” And now we must add to this “Some 23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from bombs or guns, hunger or disease or in the concentration camps.) [8]
Những con số nạn nhân này được chia ra làm hai loại:
1.- Do Giáo Hội trực tiếp chủ trương.
2.- Do các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội và tín đồ cuồng tín gây nên.
Trong thực tế, tất cả đều do Giáo Hội chủ trương cả. Chủ trương này một phần bắt nguồn từ Cựu Ước Kinh như đã trình bày ở trên, một phần vì bản chất hung hăng hiếu chiến, đa sát, khát máu được Giao Hội cấy vào trong đầu óc tín đồ qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ khiến cho họ trở thành những thứ bạo chúa khát máu ưa thích tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác khi họ có quyền lực trong tay. Cũng vì thế mà có nhiều tội ác có thể nhìn thấy dễ dàng là do Giáo Hội chủ trương và trực tiếp hành động. Thí dụ như phát động các cuộc chiến thập tự, thiết lập các tòa án dị giáo, việc ban hành các thánh lệnh trong thế kỷ 15, việc trực tiếp ra lệnh cho Giám-mục Emmanuel Milingo phải dứt khóat từ bỏ người vợ thân thương mới cuới của ông là bà Maria Sung vào tháng 8 năm 2101.
Cũng có nhiều tội ác do chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội hay tín đồ cuồng tín gây nên, nhưng nếu xét cho cùng, thì cũng là do Giáo Hội hoặc là ra lệnh, hoặc là giáo dục cho họ phải làm như vậy. Thí dụ như chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm tổ chức đại lễ long trọng dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm vào tháng 2 năm 1959, việc không cho làm lễ giỗ tổ Hùng Vương, việc thủ tiêu các thành phần đối lập chính trị ở miền Nam, việc tàn sát khoảng 300 ngàn người dân ở Liên Khu V, việc tin đồ Gia-tô đặt điều kiện cho những người thuộc các tôn giáo khác muốn thành hôn với con cái của họ thì phải từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền của gia đình để theo đạo Da-tô rồi mới chấp nhận cho đương sự thành hôn.

Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét